⛈️ Cách An Sao Tuần Triệt

Cách mạng Tân Hợi (1911) là cuộc cách mạng tư sản không triệt để vì: – Không giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân, một trong những vấn đề cơ bản của cách mạng. Chính vì vậy, họ không động viên được đông đảo quần chúng nông dân tham gia. – Không Sao làng nhàng thì gặp Tuần Triệt chẳng hại gì, lại thường có lợi. Bởi thế chẳng sách nào nói Đồng sợ Triệt Tuần, các sách lại hay nói đến cách to là “thạch trung ẩn ngọc”, tức Cự Môn Tý Ngọ đắc Triệt Tuần. Một trong 4 sao của bộ Tứ Không là Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không. Ý Nghĩa Của Tuần Triệt Tác dụng của Tuần, Triệt có tính cách toàn diện, không có biệt lệ, tức là hai sao này chi phối tất cả các sao đồng cung và tất cả các cung có Tuần, Triệt án ngữ Tuần Triệt không tính theo Âm Dương Nam Nữ, chỉ tính theo Âm Dương. Sao này ghi 4 chữ, Tuần Trung Không Vong, Triệt Lộ Không Vong, cung cùng âm hay đương với tuổi thì ghi Không Vong, còn cung kia ghi 2 chữ Tuần trung, triệt lộ. Gặp 2 chữ Không Vong thì xấu nhất, chịu ảnh hưởng 70 nhẫn nại tiến hành cách này 3-4 lần/ tuần mới mang lại kết quả. Triệt lông bụng nam nữ bằng cà chua chín 2. Cách triệt lông bụng tự nhiên bằng chanh và mật ong. chuẩn bị: 100ml mật ong( tùy vào diện tích da bạn cần tẩy lông) Một quả chanh tươi; Cách Triệt lông bụng với sao tuầngiường như các quý vị có vẻ hiểu rõ hơn do lý thuyết và cách an có phần dễ hiểu hơn dễ nhận biết hơn. như quý vị đã biết tuần thì được an theo lục giáp. sự sự khuyết can mà thừa chi vì thế nên phải độn, đẩy lên hai can để cho đủ chu kỳ vậy. nên LHS Thứ Sáu Tuần XXIX Thường Niên. C – Lm. Giuse Nguyễn Khánh Sơn, DCCT; HỌC LÀM NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH NHÂN CÁCH- Bài 75; KHIÊM TỐN TRONG CẦU NGUYỆN; BÙNG CHÁY MỘT CÁCH TRIỆT ĐỂ; LHS Thứ Năm Tuần XXIX Thường Niên. C – Lm. Giuse Nguyễn Khánh Sơn, DCCT; LHS Thứ Tư Tuần XXIX Thường Tuần,Triệt chặn đầu cung thì ảnh hưởng mạnh (8-10), vuốt đuôi cung thì ảnh hưởng nhẹ (2-10) Một cách khác để nhận định. Một cách khác để nhận định cũng đi đến kết quả như trên : Người sinh Dương thì Triệt, Tuần ảnh hưởng nặng vào cung Dương nơi trấn đóng (7 Dương ở Thìn gặp Triệt có Văn Khúc đồng cung, Âm ở Tuất gặp Tuần có Văn Xương, Hóa Khoa đồng cung. Vậy tôi xin hỏi chung 2 câu, Âm Dương sáng sủa gặp Tuần Triệt có xấu như tối hãm không? Nếu chính tinh đắc địa gặp Tuần Triệt thì có cách nào hóa giải không ? Xin zni8bv. Tam Nguyên An 2 sao Địa-kiếp, Địa-không Gọi tắt là KIẾP KHÔNG Theo giờ sinh Kiếp thuận , Không nghịch ĐỊA-KIẾP Kể cung Hợi là giờ Tý, tính thuận tới giờ sinh , ngưng tại cung nào an Địa kiếp tại cung ấy . ĐỊA-KHÔNG Kể cung Hợi là giờ Tý, tính nghịch tới giờ sinh , ngưng tại cung nào an Địa không tại cung ấy . Thí dụ Người sinh giờ Mão An Địa-kiếp tại cung Dần , an Địa-không tại cung Thân. THƠ Kiếp không khởi tự Hợi cung Không nghịch kiếp thuận , long hung tuỳ thời NHẬN XÉT ĐỂ GHI NHỚ 1 KIẾP KHÔNG ĐỒNG CUNG Sinh giờ Tý Kiếp Không đồng cung tại Hợi Sinh giờ Ngọ Kiếp Không đồng cung tại Tỵ 2 KIẾP KHÔNG GIÁP BIÊN Sinh giờ Sửu, giờ Hợi Kiếp Không giáp biên tại Hợi Sinh giờ Tỵ, giờ Mùi Kiếp Không giáp biên tại Tỵ 3 KIẾP KHÔNG CƯ 2 CUNG XUNG CHIẾU NHAU Sinh giờ Mão Kiếp an tại Dần. Và an Không tại Thân cung Sinh giờ Dậu an Địa-kiếp tại cung Thân Và an Địa-không tại cung Dần Tập bấm cung ở bàn tay 2 sao Địa-kiếp, Địa-không này , an theo giờ sinh , sẽ nhập tâm được sinh giờ nào , có cách đồng cung , giờ nào có cách giáp biên , và giờ nào sẽ cư cung xung chiếu nhau, để sau không phải tính tới Kiếp Không khi lấy số. An Mạnh-chủ Tuỳ theo năm sinh. Người sinh năm Tý an Mạnh chủ với Tham-lang Người sinh năm Sửu Hợi an Mạnh chủ với Cư-môn _ _ _ Dần Tuất_ _ _ _ Lộc-tồn _ _ _ Mão Dậu_ _ _ _ Văn-khúc Người sinh năm Ngọ an Mạnh chủ với Phá-quân _ _ _ Thân Thìn an Mạnh chủ với Liêm -trinh _ _ _ Mùi Tỵ _ _ _ _ Vũ-khúc An Thân- chủ Người sinh năm Tý an Thân chủ với Linh-tinh _ _ _ Sửu Mùi _ _ _ Thiên-tướng _ _ _ Ngọ _ _ _ Hoả-tinh _ _ _ Dần Thân _ _ Thiên-lương _ _ _ Mão Dậu _ _ Thiên-đồng _ _ _ Thìn Tuất _ _ Văn-xương _ _ _ Tỵ Hợi _ _ _ Thiên-cơ. Thơ an Mạnh-chủ Mạnh –chủ sao lại kể ra Tuổi Hợi, tuổi Sửu cùng nhà Cự –môn Dần Tuất Hợi với Lộc-tồn Mão Dần Văn Khúc Chuột còn Tham-Lang Vũ-khúc Rắn trắng Dê vàng Liêm trinh Rồng Khỉ, Ngựa hàng Phá quân Thơ an Thân- chủ Thân –chủ ngộ hãm thời hung Người mà tuổi Tý hội cùng Linh-tinh Tuổi Ngọ sao Hoả một mình Sửu Mùi Thiên-tướng Thiên-lương Thân Dần Thiên-đồng Mão Dậu xuất thân Thiên cơ Tỵ Hợi một phần không sai Thìn Tuất Văn-xương an bài Đồng cung Thân Mạnh mấy ai sành tầy. An sao Triệt-lộ Gọi tắt là Triệt TRIỆT Tuỳ theo hàng can của tuổi sinh, mà định cung an sao Triệt. Sao Triệt cư giữa vị trí của 2 cung SINH THUỘC CAN CUNG AN TRIỆT Giáp Kỷ Thân Dậu Ất Canh Mùi Ngọ Bính Tân Thìn Tỵ Đinh Nhâm Dần Mão Mậu Quý Tý Sửu BẢNG KÊ TRIỆT AN TẠI 10 CUNG BÍNH TÂN ẤT CANH GIÁP KỶ ĐINH NHÂM MẬU QUÝ Thí dụ Người sinh năm Bính Dần hay Tân Tỵ An Triệt ở giữa 2 cung Thìn và Tỵ Tam Nguyên THƠ AN TRIỆT Triệt không thời Giáp Kỷ Hầu Kê ất Canh Mùi Ngọ đi về Bính Tân Thìn Tỵ vẫn nề xưa nay Đinh Nhâm Dần Mão sánh bày Mậu Quý Tý Sửu phương này lạ thay. An sao Tuần không Gọi tắt là TUẦN TUẦN Muốn an sao Tuần, phải tính xem tuổi sinh thuộc Giáp nào trong Lục giáp. Vì sao Tuần an theo giáp, thường gọi là con nhà giáp nào, thí dụGiáp Tý, Giáp Tuất. Tuần cũng cư ở vị trí giữa 2 cung như sao Triệt. Tính thấy tuổi sinh thuộc Giáp nào Một Giáp là 10 tuổi Cung an Tuần Khởi từ Giáp Tý tới Quý Dậu Tuất + Hợi Khởi từ Giáp Tuất tới Quý Mùi Thân + Dậu Khởi từ Giáp Thân tới Quý Tỵ Ngọ + Mùi Khởi từ Giáp ù Ngọ tới Quý Mão Thìn + Khởi từ Giáp Thìn tới Quý Sửu Dần + Mão Khởi từ Giáp Dần tới Quý Hợi Tý + Sửu BẢNG KÊ TUẦN AN TẠI 12 CUNG GIÁP NGỌ GIÁP THÂN GIÁP TUẤT GIÁP THÌN GIÁP TÝ GIÁP DẦNÙ Xem bảng kê dưới Phải tính tuổi sinh thuộc con nhà Giáp nào, để an sao Tuần tại cung nào. Người sinh tuổi Thuộc Giáp nào Cung an Tuần Ất Sửu hay Nhâm Thân Giáp Tý Tuất Hợi Ất Hợi hay Nhâm Ngọ Giáp Tuất Thân Dậu Ất Dậu hay Nhâm Thìn Giáp Thân Ngọ Mùi Ất Mùi hay Nhâm Giáp Ngọ Thìn Tỵ Ất Tỵ hay Nhâm Tý Giáp Thìn Dần Mão Ất Mão hay Nhâm Tuất Giáp Dần Tý Sửu Cách ghép can chỉ để biết thuộc Giáp nào trong 6 Giáp, vì Thiên can chỉ có 10 hàng , mà địa chỉ có 12. 1Bắt đầu lấy chữ đầu của hàng can là Giáp, đem ghép với chữ đầu của hàng chi, thành ra Giáp Tý , nếu cứ ghép xuôi tới 10 hàng , thì chữ Quý cuối cùng của 10 hàng can sẽ gặp địa- chi Dậu, như vậy là hết 1 Giáp, và các tuổi từ Giáp Tý tới Quý Dậu sẽ thuộc con nhà Giáp Tý. 2Lại tiếp tục lấy chữ đầu của hàng can là Giáp , ghép với chữ Tuất của hàng chi còn lại, nhập chung lại sẽ thấy Giáp Tuất, và cứ như thế , thứ tự nạp xuôi , tới khi chữ Quý cuối cùng bên hàng can , gặp chữ nào ở bên địa-chi, tức là hết một Giáp , như vậy tuổi từ Giáp Tuất tới Quý Mùi đều thuộc con nhà Giáp Tuất cả. 3Cứ thứ tự nạp xuôi như trên , sẽ thấy hiện ra 5 vòng địa-chi hợp với 6 vòng Thiên can , cho đủ 60 năm , mới đủ 6 giáp. Vì Thiên can có 10 hàng , phải 6 lần mới đủ 60 năm. Và địa-chi có 12, chỉ 5 lần đã đủ 60 năm, nên khi ghép can với chi , mới thấy thừa lại 2 hàng địa-chi , ngay từ giáp đầu là Giáp Tý, và phải ghép đủ với nhau 60 năm mới thấy bên Thiên can tới chữ Quý, thì bên địa-chi cũng tới chữ Hợi Như vậy , năm Giáp Tý là năm khởi đầu của một vòng 60 năm và năm Quý Hợi là năm cuối cùng của 1 vòng 60 năm. Và trong 1 vòng 60 năm , gồm đủ tục Giáp như ta thường thấy . THƠ AN TUẦN Tuần không tính nghịch vòng quanh Giáp Tý Tuất Hợi ngóng trông đêm ngày Giáp Tuất Thân Dậu giãi bày Giáp Ngọ Thìn Tỵ Giáp Thân Ngọ Mùi Giáp Thìn Dần Mão nhớ ai Giáp Dần Tý Sửu không sai một phần . CÁCH AN SAO TUẦN TRÊN BÀN TAY Phải tính tuổi sinh thuộc con nhà giáp nào , để an sao Tuần trên 12 cung. Thập can có 10 hàng là Giáp ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. COI NHƯ MỘT BÀI THƠ Đọc ngược lại nhập tâm là Quý Nhâm Tân Canh Kỷ Mậu Đinh Bính ất Giáp. Nguyên tắc Bấm tuổi sinh vào cung địa bàn ,rồi đọc ngược , và bấm ngược hàng can , bắt đầu từ can tuổi sinh tới Giáp, vì chữ Giáp là đầu của thập can . Thí dụ Người sinh tuổi Bính Dần -Bấm can Bính vào cung Dần ,rồi đọc ngược hàng can Bính Ất Giáp. Sẽ thấy Bính ở cung Dần ất ở cung Sửu Và Giáp ở cung Tý Như vậy biết ngay, tuổi Bính Dần thuộc con nhà Giáp Tý, an sao Tuần ở giữa hai cung Tuất Hợi. ¯ CỰ MÔN NAM MẠNH CA Cự môn Tý Ngọ nhị cung phùng. Cục trung đắc ngộ rĩ vi vinh. Tam hợp hoá cát Khoa Quyền Lộc Quan cao cực phẩm y tử bác. NGUYÊN TẮC AN SAO TUẦN Sao Tuần an theo lục giáp Vị trí lục giáp trên bàn tay 1 Giáp Tý ở cung Tý an sao Tuần tại Tuất Hợi. 2 Giáp Tuất ở cung Tuất an sao Tuần tại Thân Dậu. 3 Giáp Thân ở cung Thân an sao Tuần tại Ngọ Mùi. 4 Giáp Ngọ ở cung Ngọ an sao Tuần tại Thìn Tỵ. 5 Giáp Thìn ở cung Thìn an sao Tuần tại Dần Mão. 6 Giáp Dần ở cung Dần an sao Tuần tại Tý Sửu. Tam Nguyên MỘT GIÁP CÓ 10 TUỔI TỪ GIÁP TÝ TỚI QUÝ DẬU Hình vẽ áp dụng an sao Tuần. Thí dụ người sinh tuổi Bính Dần Thuộc con nhà giáp nào NGUYÊN TẮC TÌM TUỔI THUỘC GIÁP NÀO Bất kể tuổi sinh nào , nạp ngược và bấm cung ngược , khởi từ can tuổi sinh , tới khi giáp gặp cung nào, tức là tuổi sinh thuộc Giáp ấy. Nạp âm và bấm nghịch Bính Ất Giáp . Bính tại cung Dần. Ất tại cung Sửu Giáp tại cung Tý,như vậy tuổi sinh thuộc Giáp Tý An sao Tuần ở Ất Hợi. MỘT GIÁP CÓ 10 TUỔI KHỞI TỪ GIÁP TỚI QUÝ Áp dụng tìm an sao Tuần. Thí dụ người sinh tuổi ất Hợi Thuộc con nhà giáp nào NGUYÊN TẮC Bất kể tuổi sinh nào , nạp ngược hàng can ,cho tới khi giáp gặp cung nào, tức là tuổi sinh thuộc Giáp ấy. Nạp âm và bấm ngược hàng can Ất Giáp . Bấm Ất vào cung Hợi. Giáp vào cung Tuất, như vậy tuổi Ất Hợi thuộc Giáp Tuất. An sao Tuần tại Thân Dậu cung. GIÁP ĐỨNG ĐẦU , QUÝ ĐỨNG CUỐI LÀ 1 GIÁP Áp dụng tuổi sinh thuộc Giáp nào Thí dụ người sinh tuổi Đinh Hợi Nạp âm ngược hàng can Đinh Bính Ất Giáp. Bấm Đinh tại cung Hợi tức là tuổi sinh. Bính tại cung Tuất. Ất tại cung Dậu Giáp tại cung Thân, tuổi sinh thuộc Giáp Thân. An sao Tuần tại Ngọ Mùi. 10 TUỔI THUỘC GIÁP NGỌ Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất. Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão. Áp dụng tìm tuổI thuộc giáp nào. Thí dụ NgườI sinh tuổI Mậu Tuất. Nạp âm ngược và bấm ngược hàng can Mậu Đinh Bính Ất Giáp. 1 Bấm Mậu vào cung Tuất. 3 Bấm Bính vào cung Thân Như vậy tuổI sinh thuộc con nhà Giáp Ngọ. An sao tuần vào cung Thìn Tỵ. 10 TUỔI THUỘC GIÁP THÌN Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân. Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu. Áp dụng tìm tuổI thuộc giáp nào. Thí dụ NgườI sinh tuổI Đinh Mùi. Nạp âm ngược hàng can áp dụng cho tất cả các tuổi. 1Bấm Đinh vào cung Mùi. 2Bấm Bính vào cung Ngọ 3Bấm Ất vào cung Tỵ 4Bấm Giáp vào cung Thìn Như vậy tuổI sinh Đinh Mùi thuộc Giáp Thìn. An sao tuần tại cung Dần Mão. 10 TUỔI THUỘC GIÁP DẦN Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ. Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Áp dụng tìm tuổI thuộc giáp nào. Thí dụ NgườI sinh tuổI Quý Hợi. Nạp âm ngược Quý Nhâm Tân Canh Kỷ Mậu Đinh Bính Ất Giáp. 1 Bấm Quý vào HợI 2 Bấm Nhâm vào cung Tuất. 3 Bấm Tân vào cung Dậu 4 Bấm Canh vào cung Thân. 5 Bấm Kỷ vào cung Mùi 6 Bấm Mậu vào cung Ngọ . 7 Bấm Đinh vào cung Tỵ 8 Bấm Bính vào cung Thìn . 9 Bấm Ất vào cung Mão 10Bấm Giáp vào cung Dần. Như vậy tuổI sinh Quý HợI thuộc con nhà Giáp Dần. An sao tuần vào cung Tý Sửu. Tam Nguyên Có 3 cách hóa giải Tuần Triệt dựa trên nguyên lý hình thành của nó. a. Động cung xung chiếu. Sao tốt gặp Tuần Triệt là đáng được thuận lợi, tự do mà lại bị kìm hãm, vô hiệu hóa, nên xấu. Vậy dùng cách động cung xung chiếu, đó là phá cửa nhà tù mà ra. Dùng cây gỗ lớn tông thẳng vào cửa mà phá xích. Dùng quân tinh nhuệ, lính đánh thuê tập kích phá tung tường bao, giải thoát tù nhân, thả hổ về rừng. Với Tuần là kích tung lên cho mất cái trì trệ, chậm chạp. Đó là làm con đường xuyên qua vùng đất lạc hậu để nó phát triển đi lên. Con đường càng đâm thẳng vào vùng đất đó, càng đi xuyên qua vùng đất đó càng lợi, nên động cung xung chiếu là đắc cách. b. Chủ động tạo sự ngăn cách. Cách này tạo ra cái giống Tuần Triệt để giảm tác dụng của nó. Vì Tuần Triệt là vùng đất có qui chế đặc biệt, là chỗ xa xôi, là nơi ngăn cách, nên đi xa là một cách tạo hiệu ứng tương tự. Đi đến vùng đất lạ, đi xa hẳn nơi sinh là cách giải rất tốt. Hoặc chủ động tạo ra sự riêng biệt, tự tách riêng ra. Tự áp đặt cho mình qui chế đặc biệt, không cần cái ngoại lực nào nữa. Đó là khi ở cùng nhà mà tách hộ ăn riêng, làm cùng chỗ mà chia tách riêng các bộ phận. Để Tuần Triệt ứng vào ngăn cách, chia lìa. c. Dùng sao Tử vi Đây là một cách giải hết sức hữu hiệu, rất đặc biệt. Vua có thể ra lệnh biến vùng đất xa xôi nào đó thành thị xã, thành phố, xóa cái lạc hậu chậm tiến đi. Vua có thể can thiệp để ân xá, giảm án cho tù nhân nên Tử vi có thể giải cái hung của Tuần Triệt. Đây là một kết quả cực kỳ quan trọng trong ứng dụng. Tử vi ở đâu, nếu dụng được cung đó thì sẽ làm Tuần Triệt nhẹ đi nhiều. Hạn đến Tử vi sẽ xảy ra hiệu ứng bung Tuần Triệt ở cung bị cùm khóa, như vua lên ngôi đại xá thiên hạ, nhà tù mở cửa giải thoát. Mệnh Thân có Tử vi thì Tuần Triệt tại đâu cũng nhẹ đi nhiều rồi, tức tự mình có quyền tha giết, bắt bớ, nên không sợ Tuần Triệt. Hạn đến Mệnh hoặc xung Mệnh thì sự bung vỡ rất rõ. Mệnh Thân bị Tuần Triệt, trong các cung xung chiếu, tam hợp chiếu có Tử vi mà dụng được cung đó là coi như đã được giải nhiều rồi. Điều này rất ứng nghiệm, có giá trị cao trong giải đoán. Tử vi là vua nên dù bị Tuần Triệt đóng tại bản cung vẫn có tác dụng. Thường chỉ ứng là có giám sát chặt chẽ, có xa cách như di chuyển, thay đổi, không bị trì trệ quá đáng, không thể bị vô hiệu hóa. Tử vi nắm quyền tha giết, Tuần Triệt phải ở trong tay nó. Động cung có Tử vi có thể làm nhẹ Tuần Triệt. Có gia đình bố mẹ già con cái đùn đẩy không ai muốn phục vụ. Một người con dù vai thấp nhưng đón về nuôi. Người đó Mệnh bị Triệt, có Tử vi ở cung Phụ mẫu, vậy là đã vô tình rước vua vào nhà để giải Triệt. Cuộc sống từ đó liên tục phát tài, có may phúc rất khó hiểu. Một ví dụ khác là như nàng Kiều bị cùm khóa nơi đất thấp, gặp Từ Hải là phá tung xiềng xích, trở nên khác hẳn. Thuyền quyên ví biết anh hùng Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi! Câu trên thực ra là của Sở Khanh hót để khoe khoang với Kiều, nhưng nó lại ứng việc Từ Hải là Tử vi dễ dàng giải thoát Kiều khỏi lầu xanh. Khi Từ Hải chết rồi thì Kiều rơi trở lại đất thấp… Bài viết Nguyên lý Tuần – Triệt của tác giả Kim Ca. Mời các bạn đọc tham khảo. + Tuần Trung Không vong Tuần được an theo Lục Giáp, ví dụ sinh năm Giáp Tý, đếm theo chiều thuận thì Giáp Tý, Ất sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân Quý Dậu là hết 10 thiên Can, thì Tuần an ở Tuất Hợi, Tuất Hợi chính là Tuần Trung Không Vong, cho nên Tuần là nơi chỉ có Địa mà không có Thiên, cho nên Tuần ở đó là “Thời Can đã hết chỉ còn Địa”, mà cái lý đơn giản có Thiên thì Địa mới hoá thành Nhân, nay chỉ có Địa không có Thiên thì hẳn Nhân nào tồn tại và được sinh, cho nên Tuần đóng đó biểu thị cái “hư vô”, mọi thứ ở trong Cung mờ ảo, không thực, các Sao trong Cung bị giảm tác dụng mạnh, tốt gì giảm tốt, xấu thì giảm xấu, các sao trong Cung ấy khó mà hoạt động bình thường được do “Thiên Địa không hợp nhất”. vì vậy Tuần có ý nghĩa như là sự cô lập, hư không, kềm toả. cho nên Tử vi sợ gặp Tuần, có khác nào Vua bị kiềm tỏa, quyền danh rơi vào hư không, không có thực quyền cũng giống như bị quản thúc vậy. Tuần không có sự chia cắt như Triệt, cho nên Tam hợp, xung chiếu gặp Tuần vẫn hình thành nên được Cách Cục, nhưng do bản Cung bị Tuần nên các sao trong Cung mất hiệu lực, thành ra Cách Cục bị ảnh hưởng mạnh mẽ. + Triệt Lộ Không vong cách thức an Triệt lộ dựa trên cơ chế của Số Thái Huyền, muốn nắm được số Thái Huyền thì phải học cao hơn về Dịch lý cho nên tôi rất muốn đưa ra ở đây nhưng ngại vì các học viên khó nắm bắt cho nên chỉ nói về tính chất của nó. Triệt có tác dụng ngăn chặn qua câu “hung sát tinh nhất Triệt nhi khả bằng”. điều đó cho thấy Triệt có tính ngăn chặn, cắt đứt, nhanh chóng, cho nên các cung chức bị chia cắt bởi Triệt, Cách Cục trong tam hợp, xung chiếu gặp Triệt bị chặn lại. Đồng thời chia cắt các sao trong Cung ấy theo sự ngăn chặn, cắt đắt và nhanh chóng, cho nên Tướng Quân, Thiên Tướng, Thiên mã, Quốc Ấn…sợ gặp Triệt chủ về bô ba lao khổ, thiếu định hướng, làm việc khó thành. Tử vi gặp Triệt thì lại không đáng ngại như gặp Tuần bởi gặp Triệt thì tuy bị chia cắt với Quần Thần nhưng vẫn có thực quyền, chỉ là quyền lực bị hạn chế, nếu các sao trong Cung có Triệt như Tả Hữu. + Thứ 1 là phải xác định ngay là Tuần Triệt chỉ ảnh hưởng nên các Cung nó đóng, không có hiệu lực trong tam hợp hay xung chiếu nhưng vì các sao có sự liên kết với nhau thành nhóm, như Tử Liêm Vũ, Sát Phá tham, Thái Âm Thiên lương tam hợp, Thiên Cơ Thiên Đồng tam hợp, Phủ Tướng tam hợp…cho nên khi Tuần Triệt đóng tại 1 cung, như đóng tại cung có sao Tử vi, thì nhất định Vũ Khúc và Liêm trinh sẽ bị ảnh hưởng theo, đó là nguyên lý tam hợp chứ không phải là Tuần Triệt đóng tại 1 Cung rồi tam hợp của nó cũng bị Tuần Triệt ảnh hưởng, điều đó không phải, ảnh hưởng là do tuần triệt tác động lên nhóm sao. Ta có thể hình dung, 1 đội bóng có 11 người nhóm sao, nhưng 1 người bị sa sút phong độ mạnh do chấn thương 1 sao ở cung bị tuần triệt kéo theo trận đó đội bóng bị thua, thì Tuần triệt cũng tương như vậy. Tuần Triệt tác dụng mạnh lên các sao chung xung chiếu khi sao cung nó đóng và sao cung xung chiếu tạo thành cặp Âm Dương, như Tướng Quân và Phục Binh luôn xung chiếu, Thất Sát và Thiên Phủ thì Tuần Triệt đóng vào cung Tướng Quân nó sẽ ảnh hưởng lên cả Phục binh, còn nếu các sao không có tính xung chiếu thì không ảnh hưởng nhiều. từ đó sẽ hiểu được cách vận hành của Tuần Triệt cung VCD mượn chính tinh cung đối an cung, thì khi bị Tuần Triệt nó sẽ làm gián đoạn cái sự mượn sao an cung này, khi đó cung VCD không mượn được và trở thành “vô khí”, nếu mệnh đóng cung VCD mà không có cứu giải rất dễ yểu. Triệt khác Tuần ở chổ Tuần chủ về hư không, làm các sao trong cung nó đóng mất đi lực tác dụng, làm mọi thứ trong cung như ngừng lại, vô lực cho nên Tử vi sợ nhất Tuần giống như Vua không còn lực gì, bị giam cầm và mất đi quyền hành vậy. ngược lại triệt thì có tính chất gián đoạn, chia rẽ cho nên có câu “hung sát tinh nhất triệt nhi khả bằng” nói về sự chia cắt của Triệt làm cho Sát tinh không còn liên kết với nhau thành cách cục nguy hiểm, giống như một nhóm tội phạm hung sát tinh tụ hợp mà bị công an triệt chia cắt, vây băt thì chúng mất đi hiệu lực và không thể liên kết thành băng đảng nguy hiểm. nhưng các sao trong Cung Triệt đóng vẫn có lực, giống Tử vi vua bị chia cắt với Quần Thần nhưng nó vẫn có lực, chứ không mất lực nên nó vẫn có quyền của Vua. Xét câu “Tuần Triệt đương đầu thiếu niên tân khổ”. Thiếu niên ở đây là chỉ lúc tuổi còn trẻ, ít tuổi. Chứ không phải dùng để phân biệt thiếu nhi, thiếu niên hay thanh niên. Mệnh có Tuần triệt thì tối đa số năm Đại vận chịu ảnh hưởng của Tuần Triệt là 26t, tương ứng với Hỏa lục Cục và Đại vận ở Huynh đệ hay Phụ Mẫu. Tuần Triệt là Không vong, nó ở Mệnh sẽ ngăn cách sự thông khí của Mệnh Tài quan, làm các Sao trong Cung “mất tác dụng”, sao tốt thì giảm tốt, sao xấu thì giảm xấu…cả tốt hay xấu đề bị suy giảm hoạt động đáng kể. Sở dĩ nó mất tác dụng vì các Sao bị rơi vào Hư Không, không còn môi trường cho chúng hoạt động và ngăn cản sự liên kết với Sao khác thành Cách Cục. Do vậy Tuần Triệt ở mệnh thì tuổi Thiếu niên vất vả, học hành lận đận, đường công danh thăng trầm…qua vận Tuần Triệt tức tối đa qua năm 26t thì sẽ khá hơn do Đại vận lúc này không còn Tuần Triệt nên được tự do hoạt động. và lúc đó sau một thời gian dài vất vả lận đận thì con người bắt đầu biết cách thích nghi và vươn lên. Cho dù Tuần Triệt có phân Âm Dương thì Tuần Triệt sao có thể phá nhau được, có câu “Tuần Triệt đương đầu thiếu niên tân khổ”, nó đâu có kiềm chế nhau đau, mà cộng hưởng vào nhau làm mạnh hơn. Tuần Triệt đóng cung mệnh thì bị ảnh hưởng cả Tuần lẫn Triệt, thường thì đại vận đầu đời và đại vận thứ 2 nếu Tuần Triệt có đóng ở đại vận 2 nên có nhiều khổ sở, thất bại trong học tập, hoặc đời sống…cung Mệnh chủ vật chất nên thường khó tụ được tiền bạc, dễ tụ tán tiền thất thường không ổn định, nhưng được cái Tuần Triệt cũng giúp con người thông tỏ, hiểu nhanh, học hanh, sáng suốt….nhưng chỉ ở khía cạnh lý thuyết còn vận dụng kiếm tiền hay mưu cầu danh lợi thì khó khăn vì Mệnh không chế được Tài Quan trong thế Tam hợp. nếu có cách cục hợp lý thì sẽ phát về con đường nghiên cứu, tư duy sáng tạo. Có nhiều thứ để nói về Tuần Triệt quan trọng là tùy cách cục mới nói được tốt xấu thế nào. Sát Phá Tham bị Tuần triệt thì tính là phá nặng hơn, Sát Phá Tham là bộ sao mang tính Động nhất trong hệ chính tinh nên nếu nó ở hãm địa thì khá xấu chủ về bôn ba, lao lâm lao lực, ở đây nếu có Tuần triệt án ngữ thì cũng giảm bớt cái tính “động” mà nó gây ra, cũng giảm đi về sự bôn ba lao lực, nhưng nếu Sát Phá tham ở trong thế Đắc địa thì Tuần Triệt lại làm cho nó xấu đi. Tuần Triệt đóng cung mệnh thì bị ảnh hưởng cả Tuần lẫn Triệt, thường thì đại vận đầu đời và đại vận thứ 2 nếu Tuần Triệt có đóng ở đại vận 2 nên có nhiều khổ sở, thất bại trong học tập, hoặc đời sống…cung Mệnh chủ vật chất nên thường khó tụ được tiền bạc, dễ tụ tán tiền thất thường không ổn định, nhưng được cái Tuần Triệt cũng giúp con người thông tỏ, hiểu nhanh, học hanh, sáng suốt….nhưng chỉ ở khía cạnh lý thuyết còn vận dụng kiếm tiền hay mưu cầu danh lợi thì khó khăn vì Mệnh không chế được Tài Quan trong thế Tam hợp. nếu có cách cục hợp lý thì sẽ phát về con đường nghiên cứu, tư duy sáng tạo. Có nhiều thứ để nói về Tuần Triệt quan trọng là tùy cách cục mới nói được tốt xấu thế nào. Tuần Triệt có ngũ hành không? làm sao để có thể nói Triệt ảnh hưởng sao 30 tuổi? không có bất kỳ 1 sách vở cổ học Tử vi nào nói như vậy, các sách Tử vi nổi tiếng của Trung hoa đại lục, Hongkong và Đài loan đều không có nói đến điều này, điều đó chứng tỏ việc phân 30 tuổi cho Tuần Triệt giảm hay tăng ảnh hưởng chỉ là thuyết được “sáng” tác mà thôi. cũng giống như việc phân định trước 30 tuổi xem mệnh, sau 30 tuổi xem Thân là do những người học Tử vi ở VN sáng tạo ra chứ hoàn toàn không hề có thật. bởi vì Mệnh Thân không có kiểu xem như vậy. việc phân loại ngũ hành cho Tuần Triệt cũng chẳng hề có sách vở cổ nào ghi chép điều này, mà là người ta tự sáng tác ra. mà chỉ có vài câu như sau Kim phùng Không tắc minh Hỏa phùng Không tắc phát …………………… nhưng người đời sau nghiệm thấy chẳng có ý nghĩa gì trong luận đoán. việc nói Triệt sau 30 tuổi giảm tác dụng rồi nói Triệt Âm là không phải. tất nhiên thì mấy ông như vuivui cũng có lý luận riêng của ông ấy nhưng tùy có theo hay không mà thôi. nếu bây giờ tôi lấy Triệt tác dụng nhanh chóng, mạnh mẽ nên là Dương, Tuần tác dụng từ từ lâu dài nên là Âm thì làm sao? cho nên lý thuyết là 1 chuyện, thực tế hay không lại là chuyện khác. Tuần Triệt tác dụng mạnh ở giai đoạn nào? hầu như ít ai nghiệm lý được Tuần Triệt mạnh ở giai đoạn nào, mà người ta chỉ nói ở dạng lý thuyết chứ thực tế nghiệm lý không nắm bắt được. cho nên thuyết nói triệt tuần tác dụng mạnh ở giai đoạn nào đó là phải hồ nghi, đừng tin vội. Triệt nhanh chóng, cắt đứt, gián đoạn thể hiện qua việc Mã Triệt hay Tướng Triệt được nói đến là xấu hơn Mã Tuần hay Tướng Tuần. hay câu “tam phương hung sát nhất triệt nhi khả bằng”, ý là tam phương tứ chính hung sát tinh tụ hội thì bản cung có Triệt ngăn chặn tốt. Tuần Triệt có tác dụng theo cơ chế khác nhau, đã viết cả trong chủ đề này rồi, Tuần tác dụng là cho Các Sao mất đi hiệu lực. Đừng quan tâm quá đến Tuần Triệt, bởi 1 lá số 12 cung thì nhiều nhất là 4 cung bị Tuần Triệt, nó không có tác dụng ghê gớm gì cả, còn có ý nghĩa tốt là khác. quan trọng là phải biết khi nào Tuần Triệt tốt xấu. xét theo tuổi tác thì người tuổi Dương Tuần Triệt ở cung Dương tác dụng mạnh, cung Âm tác dụng yếu có thể bỏ qua cung Âm luôn. còn tuổi Âm thì Tuần Triệt ở cung Âm tác dụng mạnh, ở cung Dương tác dụng yếu có thể qua. đây là do Âm Dương cộng hưởng. + Tuần Triệt tác dụng rất mạnh lên Cung giáp, ta có thể hiểu như một quả bóng hơi mà bỏ vào nước, thì áp lực lên quả bóng là lớn hơn khi để ở ngoài không khí. ví dụ Triệt ở Thìn Tỵ thì 2 Cung Thìn và Tỵ ảnh hưởng với nhau rất mạnh, còn Mão và Ngọ ở Thế giáp thì bị ảnh hưởng ít hơn, ở đây nếu có Khoa Quyền Lộc giáp thì lại rất tốt, chủ về ảnh hưởng của tam hóa lên bản Cung mạnh mẽ. Tuần Triệt Ngọ Mùi Tý Sửu thì làm cho 2 Cung ảnh hưởng mạnh đến mức gần như thông nhau, cho nên khi Tuần Triệt đóng ở Ngọ Mùi hoặc Tý Sửu thì nhất định phải xem Cung nhị hợp. bởi vừa hợp vừa Giáp thì cái thế của nó mạnh mẽ. Đối với người tuổi Dương thì trên toàn bộ lá số các cung Dương bị ảnh hưởng mạnh, các cung Âm ít bị ảnh hưởng nên xem nhẹ, có thể bỏ qua. Trung Châu Phái cho rằng có thể bỏ qua không xem, nhưng ở đây ta vẫn nên chú ý đến nó. nhất là với những trường hợp như Tướng Tuần Triệt, Mã Tuần Triệt. Lộc Phủ Tuần Triệt…hay Thái Dương Thái Âm Tuần Triệt, đều là những cách nhạy cảm với Tuần Triệt nên vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều. Tuổi Dương không ảnh hưởng nhiều về tuần triệt ở cung Âm vì đó là do tác dụng của Âm Dương tương hợp, còn với cung Dương thì có sự cộng hưởng làm cho tác dụng mạnh hơn hẳn. Điều này có thể hiểu giống 1 đoàn người đi cùng trên 1 cây cầu sẽ có cộng hưởng độ rung làm cho cây cầu dễ bị sập. Với cung Nhị hợp Tý Sửu, Ngọ Mùi thì Tuần Triệt có tác dụng mạnh, vì nó là cung vừa nhị hợp vừa là cung Giáp, mà Tuần Triệt làm tăng ảnh hưởng ở cung Giáp. do vậy Tuần Triệt ở cung Tý với tuổi Âm không có tác dụng nhiều nhưng cung Tý lại bị ảnh hưởng của cung Sửu mạnh. Đây gọi là THÔNG KHÍ. Cung VCD phải xem có hung tinh đắc địa hay không nữa, nếu không có hung tinh thì xem như YẾM KHÍ, và nếu cung đối cũng bị Tuần hay Triệt thì cung VCD trở nên VÔ KHÍ, vì Tuần Triệt ngăn chặn các cung với nhau. khi đó cung vô khí sẽ rất xấu, nếu không có cách cục như Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu hay Phủ Tướng triều viên thì khó mà sống thọ hay khá được. khi cung VCD có Tuần Triệt thì lại vừa VÔ KHÍ và lại bị thêm KHÔNG nữa thì cộng hưởng lại sẽ dẫn đến cùng cực tất phản biến của Dịch, khi đó bản cung VCD sẽ bị ảnh hưởng rất mạnh của cung Giáp, nếu 2 cung Giáp có Quyền lộc hay các sao đôi cát tinh tiếp giáp như Tả Hữu Xương khúc…thì lại tốt ra. Nhật Nguyệt như là cha mẹ, bề trên, quý nhân…khi chiếu vào mệnh thì dễ được che chở, bao bọc nên tốt cho mệnh VCD, ngoài ra Nhật Nguyệt chủ về sự ổn định, mà lại có sự thông minh, sáng suốt nhạy bén nên được tốt vì sự thông minh. nhưng sự thành công đường đời thì chưa chắc vì có nhiều yếu tố quyết định không phải chỉ mỗi thông minh. chính sự ổn định của Nhật nguyệt cần cho mệnh VCD, vì VCD người ta hay so sánh với nhà không nóc, là người không bền, dễ chán, hay thay đổi, dễ bôn ba, vất vả…ngoài ra thì mệnh VCD do không chủ tinh nên thu hút được ảnh hưởng của Nhật nguyệt nhiều hơn, giống như ánh sáng chiếu vào hư vô, giống trong 1 không gian trống trãi, tĩnh lặng thì con người trở nên đĩnh ngộ, thông minh. Tác giả Kim Ca – Lê Thanh Cần — Tham khảo thêm TUẦN TRIỆT VÀ CUNG MỆNH Theo quan điểm của Kim Ca thì Tử vi quả là một môn rất rất khó học, bởi vì suy cho cùng nguồn gốc của Tử vi là không rõ ràng, đã thế lại chia thành nhiều bè phái. Sách vở thì ngày càng nhiều, cao thủ thì ngày càng đông. Người không biết thì cố tỏ ra tinh thông hiểu biết, người biết thì thò thò thụt thụt cắt xén dấu đi cho con em đệ tử, thành thử hậu học không hiểu cái lý rõ ràng nên quy Tử vi là tà Đạo. Để làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hy vọng giúp một số người hiểu thêm và có niềm tin vào Tử vi. Nhân tiện đọc bài của anh thatsat thấy đề cập đến Tuần Triệt nhưng quá ngắn gọn và người đọc sẽ khó hình dung ra được. Kim Ca sẽ nói đến một yếu tố quan trọng của Tuần Triệt ở Cung Mệnh. Đầu tiên là mệnh VCD và sau đó là mệnh có Chính Diệu. Bởi xét cho cùng thì người mệnh VCD là quan tâm hơn cả vấn đề này. Bởi có câu mệnh VCD không yểu cũng bần Mệnh VCD đã được nhiều nhà Tử vi nghiên cứu và nghiệm lý, có người thì nói là nhà không nóc, nhưng có lẽ ít ai hiểu được bản chất thật sự của nó là như thế nào. Đầu tiên nói đến lý thuyết kinh điển về Chủ Khách, lấy Cung Mệnh làm Chủ, Tam phương Tứ chính làm Khách, mệnh Chủ cường hơn Khách thì thuận lợi, ngược lại mệnh Chủ nhược khách cường là gian nan. Khi mệnh VCD thì thiên di luôn có chính diệu, điều dễ dàng nhận thấy là Chủ nhược và Khách cường, khi Chủ nhược thì khả năng chống đỡ Sát Khí từ Tam Phương Tứ chính là kém đi rất nhiều, đó là yếu tố gây nên tai họa cho Mệnh VCD, hãy lấy ví dụ Một người khỏe mạnh, cường tráng Chủ cường thì không sợ phong ba bão gió của xã hội Khách , đi ngoài đường gặp cơn gió thấy cảm giác mát mẻ dễ chịu, khác với một người ốm yếu Chủ yếu vì sự biến động của xã hội thường cảm thấy mệt mỏi, đi ngoài đường gặp cơn gió bị cảm mạo, sinh bệnh chết Khách mạnh hơn Chủ , cho nên nói mệnh VCD dễ yểu bởi vì Sát Khí từ Khách xung phá Mệnh quá nhiều. Đó là yếu tố quyết định có yểu hay không, nếu mệnh VCD mà Tam phương Tứ chính cát tinh hột tụ không bị sát tinh xâm phạm thì ta xét đến Cung Mệnh làm Chủ và Cung Đại vận làm Khách, ta lại dễ dàng nhận thấy nếu Tam phương Tứ chính cung Mệnh không có Sát tinh thì tất yếu sẽ hội tụ sát tinh ở Đại vận, Chủ Nhược Khách Cường và lại vẫn bị Sát Khí xâm phạm mạnh mẽ, nên dễ yểu khi vận đi qua Cung sát tinh hội tụ được Hóa Kỵ dẫn động. Đó là nói đến cái yểu của người mệnh VCD, bây giờ xét đến cái bần của người VCD. Mệnh VCD Chủ nhược Khách cường thì Mệnh sẽ không làm Chủ được Tài Quan, dẫn đến bị động trong hoàn cảnh, gặp một vấn đề dù biết bản chất của nó là gì, nhưng không biết phải giải quyết thế nào, kinh doanh thì không hoạch tài, làm quan thì dễ bị chèn ép, ý chí thì kém, lại hay thay đổi cũng bởi Chủ nhược. Tất nhiên sẽ có người lý luận tôi không yểu cũng chả bần, nhưng ở đây yểu và bần là xét trung bình cho người mệnh VCD trong xã hội. Qua những vấn đề được nói ở trên thì rõ ràng mệnh VCD cần Tuần Triệt để ngăn chặn Sát khí từ các cung Khách để tăng thọ, Đối với giàu hay nghèo thì lại phải xem những yếu tố khác nữa. bởi có câu mệnh VCD hội tam không phú quý khả kỳ. Nhưng với Tuần Triệt đã giúp cho bản cung được vững vàng hơn qua việc đánh chặn nguy hại từ bên ngoài. Đặc biệt mệnh VCD quan trọng xét Tứ hóa, và Chủ khách xem có được cát hay không, Khách đa cát tinh hội tụ và Tam hóa thì vẫn có thuận lợi. vì sao mệnh VCD cần hung tinh đắc địa kình, đà, hỏa, linh, không, kiếp, hình, hổ là bởi vì Hung tinh đắc địa có thể lấy lại sự cân bằng giữa Chủ và Khách. Cát tinh hay hao bại tinh quá yếu không đủ lực. Nhưng mệnh VCD có Tuần khác với mệnh VCD có triệt, điều này sẽ được nói ở phần sau. Bây giờ ta xét đến người Mệnh có Chính Diệu. Một điều hiển nhiên đó là không có một Chính tinh nào đứng riêng lẽ với nhau, và thay vào đó là đi theo một tổ hợp. Ta lấy Ví dụ người có mệnh Tử vi. Tử vi luôn tam hợp với Liêm Trinh và Vũ khúc. Theo lý thì Liêm Trinh hỏa ==> Tử vi Thổ ==> Vũ khúc Kim. Đó là sự lý sinh của Ngũ hành, Liêm trinh là Nguyên thần của Tử vi, khi Tử vi bị Tuần Triệt vì Nguyên thần Liêm trinh không sinh trợ được Tử vi, Tử vi hỏa tương thông mà sinh được Vũ khúc Kim, đẫn đến Khí Thổ ứ đọng, bế tắc. Vì vậy mệnh Tử vi Tuần Triệt là kém theo lý ngũ hành. Nhưng Tử vi gặp Tuần thì đỡ hơn gặp Triệt, bởi cái lý Âm Dương. theo Tượng thì ví Tử vi như là vua, Liêm Trinh và Vũ khúc là cận thần, Tử vi gặp Tuần Triệt được ví như Vua bị cô lập, không được trợ giúp của Quần thần, giống vua bù nhìn. lẽ dĩ nhiên là kém. Tuần là được hiểu là Thời Thiên chưa tới, nơi có Địa mà không có Thiên, thiên chưa tới thì sao Địa hóa thành. Cho nên gọi là Không vong. Cũng vì có Địa mà không có Thiên nên Tuần bản chất mang tính Âm. Đối nghịch với Triệt mang tính Dương, điều dễ thấy là nhiều người luận Triệt là chặt chém, Tướng Triệt là tướng mất đầu, Mã triệt là Mã què, âu cũng là do tính Dương của Triệt. Tử vi Dương ngại gặp Tuần hơn Triệt. Tuần tác dụng mạnh lên Tứ hóa, vòng lộc tồn, xét theo Toàn không cách thì Tuần đắc cách hơn là Triệt. Triệt tác dụng mạnh lên sao an theo giờ, ngày, tháng và vòng Thái Tuế. Tuần chế Địa kiếp mạnh hơn Triệt, ngược lại Triệt chế Địa không mạnh hơn Tuần. Tuần chế địa kiếp và Triệt chế Địa không kém hơn vì cái lý cộng hưởng. và cũng bởi cái lý Địa không mang tính Âm, Địa kiếp mang tính Dương. Cụ Thiên Lương cho rằng, Tuần Triệt hóa giải nhau ở Đại vận, tức là mệnh Tuần đến vận gặp Triệt thì sẽ được hóa giải. Điều này là có lý của Cụ. Xét Tuần Âm và Triệt Dương, thì Tuần Triệt sẽ kìm chế nhau ở Vận, do đó khả năng của Tuần Triệt ở Đại vận đã giảm đi nhiều. Nhưng không phải là sẽ mất đi Tuần Triệt, giống như Không Kiếp gặp nhau ở Tứ góc thành Âm Dương hợp nhất mà đắc địa, đắc địa thì ít hại hơn là hãm. Lý Xuất Không Điền Thật. Tuần Triệt được hiểu là Thời chưa tới, khi có Lưu Thái Tuế đến thì đó chính là Thời tới, mà thời tới thì Không Vong sẽ không còn, thời tới khi Lưu Thái tuế xung cung Tuần Triệt hoặc ở ngay cung có Tuần Triệt. Xuất không được hiểu là Không vong đã mất, nếu mệnh có Tuần Triệt thì Lưu Thái Tuế đến mệnh hoặc ở Di xung mệnh, khi Không vong đã mất thì những gì còn lại ở Cung mệnh chính là bản chất thực sự vốn có của nó, như tổ hợp sao phá hay hợp cách…từ đó sẽ thấy được sự thật giả về giàu nghèo, thọ yểu… Điền Thật . Do vậy đối với mệnh VCD rất cần chú ý đến vận có Lưu thái tuế xung mệnh, vì khi đó đã mất Không vong, nếu hạn nhập năm đó cũng bị kỵ xung thì quyết là năm đại họa. Đối với người có Chính diệu mà tổ hợp sao đi hợp cách và tốt thì năm đó là năm thăng tiến tài lộc. Lý giải thêm về Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, Thiên tướng và Phá quân luôn ở thế Đối Xung không phải Đối Cung . Tương và Phá kìm hãm lẫn nhau, lực tương tác của Phá lên Tướng ngang bằng với lực của Tướng lên Phá. Nhưng khi có Tuần Triệt thì điều đó đã bị phá vỡ, đầu tiên phải nói đến Phùng Phủ khán Tướng, xem Thiên Tướng phải xét đến thiên Phủ, khi Thiên tướng bị Tuần Triệt thì Phủ không thể giúp được Tướng. Đó là đặt Tướng vào thế yếu khi so sánh với Phá, do vậy cấu trúc Đối xung bị phá vỡ, đặt Thiên tướng vào thế yếu. Lại xét phân đối cung lưu chi thể dụngng , nguời mệnh Thiên tướng thì lấy Thiên Tướng làm Thể, Phá Quân làm Dụng, Tướng ở thế yếu thì Thể bị Dụng khắc theo lý đối xung, vì vậy mà nói Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, vì lý Thiên tướng mang tính Âm nên sợ gặp Triệt hơn Tuần. Có lẽ vậy mà Tướng Triệt là tướng mất đầu chăng? lẽ Triệt chặt chém âu cũng rất có lý tính Dương Mệnh VCD bản chất Tán, cho nên thông minh, có tính sáng tạo, và dễ thay đổi trong cách suy nghỉ. Nhưng từ những sáng tạo, thông minh đó lập kế hoạch và bắt tay thực hiện thì lại là Tụ. Từ tính sáng tạo đến khi hoàn thành cái sáng tạo ra là rất xa. Cho nên người mệnh VCD tuy là biết nhưng cái biết đó khó làm được ngoài cuộc sống thực. Đó cũng là bản chất Tán Tụ. Một người VCD có ý tưởng kinh doanh nhưng khó thực hiện đuợc bởi tính tổ chức, kế hoạch rất kém. hơn nữa ý tưởng hay thay đổi, khó thành công được. Lý Tán Khí và Tụ khí không phải chỉ ở Cung mệnh mà bao hàm cho 12 Cung. cung phúc cần Tụ khí chứ không tán, cho nên Không kiếp hỏa linh, song hao, khốc hư vốn là những sát bại tinh vào Phúc là rất kém phúc nếu không có Cát tinh đi cùng hợp cách chế giải. Ở Cung Tài cũng rất cần Khí tụ, đó là lý do Thiên Phủ, Vũ Khúc, Lộc Tồn ưa đóng Cung Tài hơn Cung Quan. Nếu làm việc trong một môi trường đòi hỏi đầu óc sáng tạo như nghiên cứu khoa học, đổi mới ở trung tâm nghiên cứu ở một tổ chức công ty, hay trong kinh doanh cần những ý tưởng kinh doanh mới để không bị lạc hậu thì Cung Quan lại rất cần những Sao Tán khí như Không kiếp, Hỏa Linh, Song hao, Thiên hư…ngược lại nếu một người làm công việc đòi hỏi tính kỷ luật cao, tổ chức tốt thì lại cần Khí Tụ. Đối với vấn đề tổ hợp tinh đẩu, mà ngay cả tổ hợp của hung cát tinh cũng rất cần Thủ lĩnh, thủ lĩnh gọi là Quân, các sao đi cùng mang tính bổ trợ là Thần. Quần thần khánh hội theo nghĩa rộng không chỉ là Tử phũ vũ tướng mà có thể là Mệnh Thiên Cơ, với Thiên Cơ làm Quân, các thần sát hỗ trợ đi cùng là Thần. Nếu đủ bộ thì có thể lập nên sự nghiệp.

cách an sao tuần triệt